Theo mức độ ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, chúng tôi chia dữ liệu kinh tế quan trọng thành hai loại:
Dữ liệu quan trọng nhất là:
1. Dữ liệu việc làm phi nông nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp được công bố vào thứ Sáu của tuần đầu tiên hàng tháng.
Nó là dữ liệu phản ánh sự phát triển kinh tế vĩ mô của một quốc gia. Tỷ lệ thất nghiệp giảm hoặc việc làm phi nông nghiệp tăng lên cho thấy nền kinh tế đang cải thiện và lãi suất có thể được tăng lên, điều này có lợi cho đô la Mỹ; ngược lại, nó là không tốt cho đô la Mỹ.
2. Vào thứ Năm của tuần thứ hai hàng tháng, cán cân thương mại sẽ công bố số liệu của hai tháng trước.
Nó phản ánh thu nhập và chi tiêu của tổng ngoại thương của quốc gia trong một khoảng thời gian, nếu dòng ngoại tệ vào trừ đi là dương thì là xuất siêu, còn âm thì nhập siêu. Nếu thâm hụt thương mại mở rộng, phản ánh rằng xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hàng hóa của Hoa Kỳ kém hấp dẫn hơn so với hàng hóa nước ngoài và các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ có thể sẽ thực hiện hành động giảm giá đồng đô la để cải thiện thâm hụt thương mại, điều này có hại cho đồng đô la. Ngược lại, thâm hụt thương mại giảm là điều tốt cho đồng đô la. Ở một số nước, nếu cán cân thương mại thặng dư, thì việc tăng thặng dư sẽ giúp đồng tiền của nước đó mạnh lên.
3. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được công bố vào cuối tháng 1, tháng 4, tháng 7 và tháng 10 hàng năm đối với giá trị ban đầu của quý trước, và giá trị điều chỉnh sẽ được công bố hai lần trong hai tháng tiếp theo.
GDP là đại diện cho tất cả các hoạt động kinh tế trong một quốc gia, bất kể ai sở hữu tài sản sản xuất. Ví dụ, nếu một công ty nước ngoài thành lập một công ty con ở Hoa Kỳ, ngay cả khi nó chuyển lợi nhuận về cho công ty mẹ ở một quốc gia khác, thì lợi nhuận của nó vẫn là một phần của GDP Hoa Kỳ. Một con số GDP cao cho thấy hiệu quả đầu tư của đất nước là tốt, các nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào dễ dàng và giá trị đồng tiền của nó sẽ tự nhiên tăng lên. 4. Quyết định lãi suất và chi tiết cuộc họp sẽ được công bố vào nửa đầu mỗi tháng, và chi tiết cuộc họp sẽ được công bố sau đó hai tuần. Nếu lãi suất được nâng lên, lãi suất nắm giữ tiền tệ của quốc gia sẽ tăng lên, điều này sẽ thu hút nhiều người mua hơn, điều này sẽ có lợi cho đồng tiền của quốc gia đó. 5. Báo cáo Tankan được công bố vào cuối mỗi quý hoặc vào đầu quý tiếp theo.
Tankan là một trong những chỉ số kinh tế hàng đầu của Nhật Bản, theo lịch sử, dữ liệu của các báo cáo Tankan do chính phủ Nhật Bản công bố hàng quý rất mang tính đại diện và có thể dự đoán chính xác xu hướng kinh tế Nhật Bản trong tương lai. Chính phủ Nhật Bản tiến hành một cuộc khảo sát hàng quý về xu hướng ngành công nghiệp tương lai của gần 10.000 doanh nghiệp. Những người được hỏi được chia thành các ngành sản xuất và phi sản xuất, và mỗi doanh nghiệp được chia thành các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ. . Kết quả khảo sát tiêu cực cho thấy nhiều công ty bi quan hơn là lạc quan về triển vọng kinh tế, trong khi số tích cực cho thấy nhiều công ty lạc quan hơn bi quan về triển vọng kinh tế.
Loại dữ liệu thứ hai:
1. Dữ liệu dòng vốn sẽ được công bố từ ngày 16 đến ngày 19 hàng tháng đối với dữ liệu của hai tháng trước.
Dữ liệu dành cho các luồng trái phiếu và vốn cổ phần của Hoa Kỳ, không bao gồm đầu tư trực tiếp.
2. Tài khoản vãng lai sẽ công bố số liệu của quý trước vào các tháng 3, 6, 9, 12 hàng năm.
Tài khoản vãng lai là mục chính trên cán cân thanh toán của một quốc gia, nó ghi lại dòng tiền ra và vào giữa một quốc gia và một quốc gia nước ngoài, bao gồm cả dòng tiền ra và vào do các yếu tố như xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động. dịch vụ, thu nhập đầu tư, thu nhập từ các hàng hoá và dịch vụ lao động khác, và các khoản chuyển nhượng đơn phương. Nếu số dư của nó là dương (thặng dư), điều đó có nghĩa là của cải nước ngoài ròng hoặc đầu tư nước ngoài ròng của quốc gia đó đã tăng lên. Một số âm (thâm hụt) cho thấy sự giảm sút của cải hoặc đầu tư nước ngoài ròng của quốc gia đó. Nếu thâm hụt tài khoản vãng lai của một quốc gia mở rộng, đồng tiền của quốc gia đó sẽ mất giá.
3. Doanh số bán lẻ được công bố từ ngày 11 đến ngày 14 hàng tháng cho dữ liệu của tháng trước.
Nó phản ánh các giao dịch hàng hóa dưới hình thức tiền mặt và thẻ tín dụng trong ngành bán lẻ, không bao gồm ngành dịch vụ. Doanh số bán lẻ tăng thể hiện sự gia tăng chi tiêu tiêu dùng cá nhân và cải thiện tình hình kinh tế; ngược lại, nếu doanh số bán lẻ giảm, điều đó thể hiện nền kinh tế đang chậm lại hoặc kém và lãi suất có thể được hạ xuống, điều này sẽ tiêu cực đối với đồng đô la...
4. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được công bố vào tuần thứ ba hàng tháng.
Nó phản ánh sự thay đổi giá cả của hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng hiện đang chi tiêu và cho thấy những thay đổi của lạm phát. Nó là một chỉ số quan trọng để mọi người quan sát lạm phát trong nước.
Khi nhìn vào giá trị thực, hãy so sánh giá trị thực tế với giá trị dự đoán, nếu giá trị thực tế tốt hơn giá trị dự đoán thì đó là dữ liệu tốt.
Cách xem một số dữ liệu kinh tế mà các nước thường công bố:
1) GDP là tổng sản phẩm quốc nội, dùng để chỉ giá trị toàn diện của hàng hóa và dịch vụ có sẵn để tiêu dùng trong cả năm và nó đo lường năng lực sản xuất tổng thể của nền kinh tế của một quốc gia. Nếu GDP cao hơn 1% so với năm trước, điều đó tương đương với việc nói rằng nền kinh tế đang tăng trưởng 1% một năm. Nhưng giá trị của hàng hoá và dịch vụ dưới hình thức giá cả cũng có thể tăng lên do lạm phát. Do đó, các nhà kinh tế thích sử dụng "tăng trưởng thực" để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế danh nghĩa của một quốc gia là 7% và tỷ lệ lạm phát là 5%, thì tốc độ tăng trưởng thực tế hàng năm là 2%.
Thông thường, tốc độ tăng trưởng GDP của một quốc gia càng cao thì nền kinh tế của quốc gia đó càng năng động và đồng tiền tương ứng mạnh hơn. Tuy nhiên, khi so sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia khác nhau, cần tính đến cơ sở kinh tế khác nhau của họ. Một nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản với tốc độ tăng trưởng trên dưới 3% có thể coi là rất tốt, trong khi một nền kinh tế nhỏ hơn như Trung Quốc nếu chỉ đạt mức tăng trưởng 3% thì không thể coi là tình hình phát triển kinh tế tốt.
2) PPI: Chỉ số giá của nhà sản xuất. Nó mô tả giá cả của nguyên vật liệu thô để sản xuất và có thể được sử dụng để đo lường sự thay đổi giá cả của nhiều loại hàng hóa khác nhau ở các giai đoạn sản xuất khác nhau. Các quốc gia thu thập báo giá của nhiều mặt hàng khác nhau từ các nhà sản xuất lớn thông qua các cơ quan thống kê và tính toán dạng trăm chữ số để so sánh thông qua các phương pháp tính toán của riêng họ. Ví dụ, dữ liệu do Hoa Kỳ công bố hiện được tính với chỉ số năm 1967 là 100, được Bộ Lao động Hoa Kỳ công bố mỗi tháng một lần. Bạn có thể thấy rằng nếu chỉ số này cao hơn dự kiến, có nghĩa là có khả năng xảy ra lạm phát. Các bên liên quan sẽ tiến hành nghiên cứu vấn đề này và xem xét có nên thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ hay không. Đồng tiền của đất nước do đó sẽ tăng giá, điều này sẽ có lợi. Nếu chỉ số tồi tệ hơn dự kiến, đồng tiền sẽ giảm giá.
3) CPI: Đây là tên viết tắt tiếng Anh của Chỉ số giá tiêu dùng. Chỉ số này phản ánh những thay đổi về giá mà người tiêu dùng phải trả cho hàng hóa và dịch vụ. Chỉ số này cũng thường xuyên được tham chiếu bởi Hội đồng Dự trữ Liên bang. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ Alan Greenspan đã sử dụng nó để đo lường mức độ lạm phát trong nước của Hoa Kỳ và việc tăng hay giảm lãi suất để kiểm soát nền kinh tế Hoa Kỳ. Chỉ số này được Bộ Lao động Hoa Kỳ công bố mỗi tháng một lần, và chúng ta nên chú ý đến nó. Khi chỉ số này tăng cho thấy tỷ lệ lạm phát trong khu vực tăng lên, cho thấy sức mua của đồng tiền đã giảm xuống. Về lý thuyết, nó không tốt cho tiền tệ và có thể gây ra sự mất giá của tiền tệ. Hiện tại, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đặt vấn đề kiểm soát lạm phát lên hàng đầu. Lạm phát có lợi cho tiền tệ, nếu lạm phát được kiểm soát và đồng thời giảm lãi suất thì lãi suất tiền tệ sẽ giảm theo.
4) RPI là chỉ số giá bán lẻ. Tại Hoa Kỳ, dữ liệu này được Bộ Thương mại Hoa Kỳ lấy mẫu trong Khảo sát Kinh doanh Quốc gia hàng tháng. Tất cả hàng hóa bán lẻ thanh toán bằng tiền mặt hoặc thẻ tín dụng đều được đưa vào khảo sát, bao gồm đồ nội thất, thiết bị điện, hàng hóa và thuốc bán trong siêu thị, v.v., không bao gồm tiêu dùng trong ngành dịch vụ. Nếu nền kinh tế phát triển nhanh chóng, tiêu dùng cá nhân sẽ tăng lên. Cung vượt cầu dẫn đến giá cả tăng, và chỉ số này tăng lên sẽ gây áp lực lạm phát về sau. Chính phủ nước này sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ. Do đó, lãi suất có xu hướng tăng lên, hỗ trợ tích cực cho đồng tiền của đất nước.
5) UE đề cập đến tỷ lệ thất nghiệp. Thống kê của Bộ Lao động của đất nước, được công bố hàng tháng. Chính phủ các nước đánh giá tình hình việc làm của toàn bộ lực lượng lao động trong nước trong tháng này thông qua một cuộc khảo sát mẫu đối với các hộ gia đình trên toàn quốc. Nếu có thiện chí làm việc, nhưng số người thất nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp. Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu kinh tế rất quan trọng. Lấy khu vực đồng euro làm ví dụ: khi đồng euro ra đời, tỷ lệ thất nghiệp ở các nước EU là trên 10%, cao hơn ở Hoa Kỳ, điều này đã khiến đồng euro giảm giá toàn bộ. Vào đầu tháng 11, tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản giảm từ 5,5% xuống 5,4%, do đó, đồng yên đã bứt phá khỏi mốc 121 trong một lần giảm mạnh, cho đến mức 119.
6) Số liệu cán cân ngoại thương: Đây là thước đo thương mại hàng hóa giữa các quốc gia và là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế. Nếu tổng nhập khẩu của một quốc gia lớn hơn xuất khẩu của quốc gia đó thì đó là thâm hụt thương mại; ngược lại, đó là thặng dư. Nếu tình trạng nhập siêu của một quốc gia thường xuyên xảy ra thì khả năng đồng tiền của quốc gia đó bị mất giá là rất cao. Vì tiền tệ mất giá sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và ngược lại tiền tệ lạc quan.
7) Lạm phát: đề cập đến sự gia tăng mức giá chung của một quốc gia và sự suy giảm tương ứng trong sức mua của đồng tiền của quốc gia đó. Nói một cách đơn giản, nếu tỷ lệ lạm phát là 10%, một hàng hóa trị giá 100 nhân dân tệ sẽ tăng lên 110 nhân dân tệ trong một năm, 121 nhân dân tệ trong năm khác và 133,1 nhân dân tệ trong năm thứ ba. Từ ví dụ trên, bạn có thể thấy tác động xấu của lạm phát: giá không chỉ tăng hàng năm mà còn tăng theo mức lợi nhuận luân phiên. Đây là lý do cơ bản tại sao chúng ta phải sử dụng một số tài sản của mình cho các khoản đầu tư rủi ro cao, có lợi suất cao, thay vì chỉ đơn giản là gửi tiền vào ngân hàng.
Các nhà kinh tế chia lạm phát thành hai loại: lạm phát do cầu kéo và lạm phát do chi phí đẩy. Nguyên nhân chủ yếu xảy ra khi tiêu dùng trong nền kinh tế của một quốc gia vượt quá khả năng sản xuất của quốc gia đó. Nguyên nhân chủ yếu là do tăng lương danh nghĩa hoặc do các yếu tố phi tiền lương như giá nguyên vật liệu và năng lượng.
Lạm phát hàng năm dưới 3% được coi là phù hợp với hầu hết các nước phát triển và giúp kích thích đầu tư hiệu quả. Và một khi tỷ lệ lạm phát quá cao, ngân hàng trung ương của một quốc gia sẽ có xu hướng tăng lãi suất để kiềm chế. Do đó, bằng cách chú ý đến các chỉ số lạm phát được công bố thường xuyên của một quốc gia - tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá tiêu dùng hài hòa (thước đo lạm phát chính trong khu vực đồng euro), v.v. - chúng ta có thể phỏng đoán rằng ngân hàng trung ương của quốc gia đó nghiêng về để tăng hoặc giảm lãi suất, từ đó suy ra hướng đi của tiền tệ quốc gia.
Cần lưu ý rằng nếu lạm phát do một số sự kiện đột ngột hoặc yếu tố mùa vụ gây ra (ví dụ, OPEC tăng giá dầu mạnh, hoặc mùa đông ở Hoa Kỳ lạnh hơn nhiều so với những năm trước trong năm nay, thì nhu cầu dầu thô đã tăng lên rất nhiều. đã được nâng lên. mặt bằng giá chung) thì khó có khả năng kiềm chế lạm phát bằng việc tăng lãi suất. Vào thời điểm này, các ngân hàng trung ương chủ yếu sẽ có xu hướng chờ xem diễn biến hơn là hành động hấp tấp.
8) Thâm hụt / thặng dư ngân sách: Nó phản ánh liệu doanh thu của chính phủ có nhỏ hơn hay nhiều hơn chi tiêu của chính phủ hay không. Khoảng trống do thâm hụt tạo ra thường được chính phủ lấp đầy bằng cách đi vay. Tác động của chỉ số này lên tỷ giá hối đoái phức tạp hơn: trong những trường hợp bình thường, việc thực hiện tài trợ thâm hụt trong thời kỳ kinh tế suy thoái hoặc thậm chí suy thoái sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế, có thể kích thích tỷ giá hối đoái của một quốc gia tăng lên. Tuy nhiên, những khoản nợ khổng lồ do thâm hụt dài hạn tạo ra, đặc biệt là nợ nước ngoài, sẽ khiến chính phủ và người dân trong nước choáng ngợp, và cuối cùng sẽ dẫn đến lạm phát trầm trọng, làm giảm tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước.
9) Các chỉ số dẫn đầu tổng hợp: Đây là một chỉ số được sử dụng để dự đoán hoạt động kinh tế. Lấy Hoa Kỳ làm ví dụ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu bao gồm giá cổ phiếu, đơn đặt hàng mới cho hàng tiêu dùng, trợ cấp thất nghiệp trung bình hàng tuần, xây dựng, kỳ vọng của người tiêu dùng, những thay đổi trong hồ sơ tồn đọng của nhà sản xuất, cung tiền, doanh số bán hàng, Sản xuất và kinh doanh nguyên vật liệu, thiết bị nhà máy và tuần làm việc bình quân. Các nhà kinh tế có thể sử dụng chỉ số này để phán đoán hướng đi trong tương lai của nền kinh tế đất nước. Nếu chỉ báo hàng đầu tăng, cho thấy nền kinh tế của đất nước đang phát triển, có lợi cho việc tăng giá đồng tiền của đất nước. Nếu chỉ số này giảm cho thấy nền kinh tế đất nước đang có dấu hiệu suy thoái, ảnh hưởng xấu đến đồng tiền của đất nước.